Loạn khuẩn đường ruột ở trẻ rất thường gặp "Thủ phạm" gây rối loạn vi khuẩn đường ruột Thông thường sau sinh từ 10-20h, dạ dày của bé hầu như không có vi khuẩn. Tuy nhiên theo thời gian, quá trình ăn uống, tiếp xúc với môi trường ngoài sẽ khiến vi khuẩn xâm nhập. Trong đó có cả lợi khuẩn và hại khuẩn. -carcinom tuyến dạ dày kiểu ruột (từ bm nghịch sản trong VLDDMT; còn kiểu lan tỏa thì chưa rõ nn) -xuất hiện chủ yếu ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. -thường thấy ở trực tràng, có kích thước khá lớn (polyp tăng sản kt nhỏ), thường có cuống, bề mặt láng hoặc có thể hơi Nói chung, có ba loại tác nhân lây nhiễm gây viêm dạ dày ruột: vi rút; vi khuẩn; ký sinh trùng; Các loại vi-rút thường có liên quan đến viêm dạ dày ruột nhất là: Rotavirus: Phổ biến hơn ở trẻ em và nguyên nhân phổ biến nhất của viêm dạ dày ruột do virus ở trẻ em Bệnh viêm dạ dày ruột ở trẻ em có các triệu chứng kể trên ở người lớn. Một số dấu hiệu cho thấy tình trạng bệnh nghiêm trong hơn phải kể đến như: Sốt từ 38.9 độ C Ngủ nhiều hơn bình thường, dễ cáu kỉnh. Khó chịu rất nhiều hoặc đau. Đi ngoài dạng lỏng có máu. Các bác sĩ khoa Ngoại tổng hợp cho biết: Phần lớn triệu chứng khởi phát bệnh viêm ruột thừa không rõ ràng, dễ nhầm lẫn với bệnh lý rối loạn tiêu hóa, viêm dạ dày…với các biểu hiện như đi ngoài, nôn khan, sốt, cơn đau bụng thường âm ỉ, lan tỏa và ít khu trú tại một điểm nên rất khó phát hiện bệnh. - Khối viêm ở bên ngoài ruột: Do đ-ờng rò vào mô quanh ruột. hang vị và bờ cung nhỏ dạ dày. u có dạng khối sùi lồi vào trong lòng, dạng loét hoặc thâm nhiễm. ở giai đoạn muộn các tổn th-ơng th-ờng lan rộng theo chu vi dạ dày tạo hình ảnh dày thành không đều, lệch gS1O. Rotavirus là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tiêu chảy nặng mất nước không thành dịch ở trẻ nhỏ trên toàn thế giới đặc biệt là trẻ từ 3 đến 15 tháng tuổi. Chẩn đoán dựa trên nghi ngờ lâm sàng, nhưng có thể làm xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase trong khuôn khổ của bảng xét nghiệm đa chủng cho nhiều nguyên nhân gây viêm dạ dày ruột cấp tính. Điều trị hỗ trợ bằng dịch uống, nhưng đôi khi cần truyền dịch tĩnh mạch. Các xét nghiệm dựa trên miễn dịchXét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase PCRXét nghiệm chẩn đoán không được thực hiện thường xuyên ngoại trừ chẩn đoán đợt bùng phát dịch; khi thực hiện, nó liên quan đến các xét nghiệm để xác định rotavirus trong phân. Xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzym ELISA và xét nghiệm ngưng kết latex là hai xét nghiệm thường được sử dụng. Xét nghiệm axit nucleic PCR rất nhạy cảm và thường được thực hiện trong bảng xét nghiệm PCR đa chủng, bao gồm một số nguyên nhân gây viêm dạ dày ruột. Dịch theo đường uống hoặc đường tĩnh mạchĐôi khi thuốc chống tiêu chảy và/hoặc thuốc chống nônDịch đẳng trương theo đường tĩnh mạch như Ringer lactate và dung dịch nước muối sinh lý thông thường nên được cho dùng khi mất nước nặng, sốc, hoặc tình trạng tâm thần bị thay đổi và liệu pháp bù nước bằng đường uống thất bại hoặc tắc ruột cơ năng xem thêm Hướng dẫn thực hành lâm sàng trong chẩn đoán và xử trí tiêu chảy nhiễm trùng năm 2017 của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ [IDSA]. Trong trường hợp mất nước nặng, nên tiếp tục bù nước qua đường tĩnh mạch cho đến khi mạch, tình trạng tưới máu và trạng thái tinh thần bình thường trở chống tiêu chảy không nên cho trẻ em < 18 tuổi bị tiêu chảy cấp dùng xem hướng dẫn của IDSA. Thuốc chống tiêu chảy có thể được xem xét ở những bệnh nhân người lớn bị tiêu chảy phân toàn nước thể hiện qua phân âm tính với heme, đặc biệt là trong đợt bùng phát, dịch, cho thấy có khả năng nguyên nhân là do vi rút. Tuy nhiên, thuốc chống tiêu chảy có thể khiến tình trạng bệnh nhân nhiễm Clostridioides difficile hoặc E. coli O157 H7 xấu đi và do đó không nên cho bất kỳ bệnh nhân nào chưa xác định được nguyên nhân gây tiêu chảy và nghi ngờ có những rối loạn này tức là do sử dụng kháng sinh gần đây, tiêu chảy phân có máu, phân dương tính với heme hoặc tiêu chảy kèm theo sốt sử dụng. Viêm dạ dày ruột do Rotavirus đã giảm đáng kể ở các nước sử dụng rộng rãi vắc-xin rotavirus, nhưng nó vẫn là một nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh tiêu chảy nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong ở trẻ em trên toàn thế biến lâm sàng có thể kéo dài từ 5 đến 7 nước bằng đường uống thường là đủ, nhưng có thể cần dùng thuốc chống nôn và đôi khi là truyền dịch qua đường tĩnh chống tiêu chảy an toàn cho người lớn bị tiêu chảy phân toàn nước nhưng nên tránh dùng cho trẻ em < 18 tuổi và ở bất kỳ bệnh nhân nào sử dụng kháng sinh gần đây, tiêu chảy phân có máu, phân dương tính với heme hoặc tiêu chảy kèm theo sốt. Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. 29/12/2020 Viêm dạ dày ruột thường là do virut. Các virut thường gặp nhất là Norovirus Rotavirus Astrovirus Adenovirus Virut nhiễm vào các tế bào ruột trong biểu mô của ruột non làm thoát muối và nước vào trong lòng ruột; đôi khi, giảm hấp thu carbohydrate làm tiêu chảy thấm thấu nặng thêm. Norovirus Từ khi có vắc-xin rotavirus, norovirus đã trở thành nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm dạ dày ruột cấp tính ở trẻ em. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng 80% xảy ra từ tháng 11 đến tháng 4. Hiện nay, norovirus là nguyên nhân chính gây ra viêm dạ dày ruột thành dịch và không thành dịch ở mọi lứa tuổi; tuy nhiên, thường gặp nhất ở trẻ em từ 6 đến 18 tháng tuổi. Các đợt bùng phát dịch lớn có thể thông qua nguồn nước và thực phẩm. Việc lây truyền từ người sang ngư ời cũng xảy ra vì virut rất dễ lây. Thời gian ủ bệnh là 24 đến 48 giờ. Rotavirus Là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tiêu chảy mất nước nặng nhưng không thành dịch ở trẻ nhỏ trên toàn thế giới đặc biệt là trẻ từ 3 đến 15 tháng tuổi. Rotavirus rất dễ lây; hầu hết các nhiễm trùng xảy ra theo đường phân-miệng. Người lớn có thể bị nhiễm bệnh sau khi tiếp xúc gần với một trẻ bị nhiễm bệnh. Bệnh ở người lớn nói chung là nhẹ. Thời gian ủ bệnh là từ 1 đến 3 ngày. Ở khí hậu ôn đới, hầu hết bệnh xảy ra vào mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3. Xem thêm bài viết Viêm dạ dày ruột do Rotavirus và vaccine Astrovirus Có thể lây nhiễm cho mọi người ở mọi lứa tuổi nhưng thường gây nhiễm cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Bệnh phổ biến nhất vào mùa đông. Đường truyền là đường phân- miệng. Ủ bệnh là từ 3 đến 4 ngày. Adenovirus Là nguyên nhân phổ biến thứ tư của viêm dạ dày ruột do virut ở trẻ em. Nhiễm trùng xảy ra quanh năm và tăng nhẹ vào mùa hè. Bệnh thường gặp ở trẻ < 2 tuổi. Đường truyền là đường phân- miệng Ủ bệnh từ 3 đến 10 ngày. Ảnh minh họa. Nguồn dạ dày ruột là tình trạng viêm niêm mạc lớp lót của đường tiêu hóa. Tại Mỹ, viêm dạ dày ruột do virus chỉ xếp thứ hai sau các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên. Hầu hết trẻ nhỏ mắc bệnh này ít nhất 2 lần mỗi năm, bé đi nhà trẻ có thể bị thường xuyên hơn. Sau 3 tuổi, nhờ sự phát triển đáng kể của hệ miễn dịch, bệnh ít xảy ra nhân - Virus là thủ phạm chính gây viêm dạ dày ruột, trong đó hay gặp nhất là rotavirus và adenovirus. - Các vi khuẩn nguy hiểm như salmonella, shigella, tụ cầu, campilobacter, E. coli cũng có thể gây bệnh. - Các ký sinh trùng chẳng hạn gardia là tác nhân gây bệnh hiếm gặp hơn. Triệu chứng Các triệu chứng chính của bệnh bao gồm Tiêu chảy, nôn mửa, đau bụng, sốt, ớn lạnh và đau người. Các biểu hiện này có thể nhẹ hoặc nặng, kéo dài từ vài giờ đến vài ngày tùy theo nguyên nhân gây bệnh. Đường lây lan - Virus gây viêm dạ dày ruột rất dễ lây lan. Bé có thể mắc bệnh do ăn phải thực phẩm chứa mầm bệnh hoặc dùng chung cốc, thìa với người nhiễm virus một người có thể mang virus mà không có biểu hiện bệnh. - Nếu thủ phạm là vi khuẩn hoặc ký sinh trùng, có thể bé đã dùng thực phẩm hoặc nước uống mang mầm bệnh. - Bé cũng có thể lây bệnh do tiếp xúc với phân nhiễm khuẩn, sau đó vô tình đưa tay lên miệng. Điều nghe có vẻ kỳ quặc này xảy ra rất thường xuyên, nhất là khi bé đi nhà trẻ hay mẫu giáo. Bạn nên nhớ các vi khuẩn gây bệnh có kích thước rất nhỏ, vì thế kể cả khi tay bé trông không bẩn thì vi khuẩn vẫn có thể bám đầy bàn tay. Các dấu hiệu cảnh báo Hãy tham vấn bác sĩ nếu bạn nghĩ bé bị viêm dạ dày ruột khi bé nôn kéo dài hơn 2 ngày hay đi ngoài phân có máu, hoặc quấy khóc bất thường. Bạn cũng nên hỏi ý kiến bác sĩ nếu thấy con có biểu hiện mất nước - Đi tiểu ít quá 6 tiếng không phải thay bỉm. - Ngủ nhiều và quấy khóc hơn bình thường. - Khát nước trầm trọng. - Môi khô. - Mắt trũng. - Thóp lõm. - Da nhăn nheo. - Khóc không ra nước mắt. - Tay chân lạnh, nhợt nhạt. Trường hợp bé nguy kịch do mất nước, bác sĩ có thể chỉ định truyền dịch qua đường tĩnh mạch. Bé có thể được nhập viện hoặc chỉ theo dõi trong vài giờ. Nếu xét nghiệm máu và phân phát hiện thủ phạm gây bệnh là vi khuẩn hoặc ký sinh trùng, bé có thể được chỉ định dùng kháng sinh. Cha mẹ không nên quá lo lắng. Nhiều khả năng bé sẽ sớm được ra viện và trở lại bình thường sau vài ngày. Điều trị - Nếu bé nhiễm trùng do vi khuẩn, bác sĩ có thể sẽ kê kháng sinh. Thuốc này không giúp ích cho viêm dạ dày ruột do virus khi nhiễm virus nói chung, thường không có cách gì khác là đợi bệnh đi hết con đường của mình. Không được dùng thuốc cầm tiêu chảy vì điều này chỉ làm bệnh tình kéo dài thêm và có thể gây tác dụng phụ nguy hiểm. - Nếu bé bị sốt và cảm thấy khó chịu, bác sĩ có thể chỉ định dùng acetaminophen hoặc ibuprofen. Đừng bao giờ cho trẻ uống aspirin bởi thuốc này có thể gây hội chứng Reye, căn bệnh hiếm gặp nhưng tiềm ẩn nguy cơ chết người. - Mất nước là một vấn đề cần được quan tâm khi trẻ bị mất dịch, thông qua nôn, tiêu chảy hay sốt. - Tùy theo mức độ nôn và lượng nước bé có thể giữ lại sau những lần uống, bác sĩ có thể chỉ định dung dịch điện giải oresol. Dung dịch này giúp bù lại các thành phần mất đi như dịch, chất khoáng và muối. - Trường hợp bé nôn liên tục khi bú mẹ hoặc bú bình, bác sĩ có thể khuyên bạn cho bé nhấp từ từ dung dịch oresol trong suốt cả ngày cho đến khi bé hết nôn và dần trở lại chế độ ăn bình thường. - Khi tìm cách bù nước cho con, bạn nên tránh xa các loại đồ uống nhiều đường như nước quả, nước ngọt có ga, vì chúng có thể khiến triệu chứng bệnh trầm trọng hơn. Bệnh viêm dạ dày ruột có thể gây tổn thương tạm thời niêm mạc ruột, khiến việc tiêu hóa thực phẩm giàu đường trở nên khó khăn. - Nếu bé đã biết ăn thức ăn đặc và chỉ bị viêm dạ dày ruột nhẹ chẳng hạn tiêu chảy nhẹ nhưng không nôn, có thể tiếp tục cho bé ăn thức ăn quen thuộc với khối lượng nhỏ trong suốt quá trình bị bệnh. Không cần dùng oresol vì sữa mẹ hoặc sữa công thức đủ đáp ứng nhu cầu nước của bé. Chế độ ăn - Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ và theo dõi các biểu hiện của con bạn. Bé có thể được ăn uống gần như bình thường hoặc có thể cần hạn chế đồ ăn đặc trong vài ngày. - Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo trẻ mắc bệnh viêm dạ dày ruột sớm trở lại chế độ ăn bình thường nhưng vẫn phải kiêng thực phẩm giàu chất béo. Chế độ ăn này bao gồm các thành phần chính như tinh bột cơm, cháo, thịt nạc, sữa chua, rau và quả. - Nghiên cứu cho thấy việc trở lại chế độ ăn bình thường ngay sau khi các triệu chứng cấp tính thuyên giảm có thể rút ngắn đợt viêm dạ dày ruột được nửa ngày, nhờ cung cấp đủ chất dinh dưỡng để cơ thể chiến đấu với vi trùng. Mặt khác nếu bệnh nhiễm trùng khiến bé chán ăn trong vài ngày thì cha mẹ cũng đừng quá lo. Chỉ cần bé được cung cấp đủ nước thì mọi chuyện sẽ vẫn ổn. Phòng bệnh - Bạn cần rửa tay thật sạch bằng nước và xà phòng sau mỗi lần thay tã cho bé, sau mỗi lần đi vệ sinh hay trước và sau khi ăn. Người trông trẻ và các thành viên trong gia đình cũng cần tuân thủ quy tắc này. Cha mẹ nên thường xuyên rửa tay cho bé trong suốt cả ngày. - Điều quan trọng hơn cả là đảm bảo vệ sinh khi chuẩn bị và chế biến đồ ăn cho bé. - Tại Việt Nam, vắc xin phòng tiêu chảy do rotavirus được cho trẻ uống từ 6 tuần tuổi trở lên, uống 2 lần cách nhau ít nhất 1 tháng và nên uống trước 6 tháng tuổi. Nguồn chủ đề Lồng ruột là lồng một phần của ruột phần ruột bị lồng vào một phần của đoạn ruột liền kề phần ruột nhận ruột lồng, gây tắc ruột và đôi khi gây thiếu máu ruột cục bộ. Chẩn đoán bằng siêu âm. Điều trị bằng bơm hơi và đôi khi bằng phẫu ruột thường xảy ra ở trẻ từ 6 tháng đến 3 tuổi, với 65% số trường hợp xảy ra trước 1 tuổi và 80 - 90% số trường hợp xảy ra trước 2 tuổi. Đây là nguyên nhân phổ biến nhất của tắc ruột ở lứa tuổi này và xảy ra gần như ngang nhau ở trẻ em nam và nữ 4 tuổi, lồng ruột phổ biến hơn nhiều ở nam 81.Đoạn ruột lồng làm tắc ruột và cuối cùng làm giảm lưu lượng máu đến đoạn ruột bị lồng xem Hình Lồng ruột. Lồng ruột. , gây thiếu máu, hoại tử và thủng. Lồng ruột Hầu hết các trường hợp đều không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, có chiếm ưu thế nhẹ ở nam cũng như thay đổi theo mùa; tỷ lệ mắc cao nhất trùng với mùa viêm ruột do vi rút. Vắc xin rotavirus ngày xưa có liên quan đến sự gia tăng rõ rệt về nguy cơ bị lồng ruột và đã bị loại khỏi thị trường ở Hoa Kỳ. Các loại vắc xin rotavirus mới hơn, được đưa ra theo khuyến cáo về trình tự và thời gian, không liên quan đến bất kỳ sự gia tăng nguy cơ có ý nghĩa nào trên lâm sàng. Ở khoảng 25% số trẻ bị lồng ruột, đặc biệt là trẻ rất nhỏ và trẻ lớn hơn, một điểm quan trọng tức là một khối u hoặc một bất thường khác ở ruột là lồng ruột. Một số ví dụ bao gồm polyp Polyp đại tràng và trực tràng Polyp ruột là bất kỳ khối mô nào phát sinh từ thành ruột và nhô vào tronglòng ruột. Hầu hết không có triệu chứng ngoại trừ chảy máu nhẹ, thường là âm thầm. Vấn đề chính là sự chuyển dạng ác... đọc thêm , u lympho Tổng quan về u lympho U lympho là một nhóm bệnh không đồng nhất gồm nhiều loại u khác nhau phát sinh từ hệ thống lưới nội mô và hệ bạch huyết. Các loại chính là U lympho Hodgkin U lympho non-Hodgkin Xem bảng So sánh... đọc thêm , túi thừa Mekel Túi thừa Meckel Túi thừa Meckel là một túi thừa thực sự và là dị tật bẩm sinh phổ biến nhất của đường tiêu hóa, xảy ra ở khoảng 2% số người. Đó là do quá trình thoái hóa không hoàn toàn của ống noãn hoàng và... đọc thêm , và viêm mạch có liên quan đến globulin miễn dịch A Viêm mạch do Immunoglobulin A IgAV Viêm mạch do IgA trước đây gọi là xuất huyết Schonlein Henoch thường ảnh hưởng tới các mạch máu nhỏ. Bệnh thường gặp ở trẻ em. Các biểu hiện thường gặp bao gồm sẩn xuất huyết, đau khớp, các... đọc thêm trước đây gọi là bệnh xuất huyết Schönlein-Henoch khi ban xuất huyết ở thành ruột. Bệnh xơ nang Xơ nang Xơ nang là một bệnh di truyền của các tuyến ngoại tiết ảnh hưởng chủ yếu đến hệ thống hô hấp và hệ tiêu hóa. Nó dẫn đến bệnh phổi mãn tính, suy tụy ngoại tiết, bệnh gan mật, và bất thường tăng... đọc thêm cũng là một yếu tố nguy cơ. Các triệu chứng và dấu hiệu của lồng ruột Các triệu chứng ban đầu của lồng ruột là khởi phát đột ngột, đau bụng dữ dội từng cơn, các cơn tái phát 15- 20 phút một lần, thường có nôn. Trẻ tương đối ổn giữa các cơn đau bụng. Sau đó, khi có thiếu máu cục bộ ở ruột, cơn đau không thay đổi, trẻ trở nên li bì và xuất huyết niêm mạc làm cho phân dương tính với hem khi khám trực tràng và đôi khi đi ngoài ra phân nhày máu. Tuy nhiên, dấu hiệu sau xảy ra ở giai đoạn muộn và các bác sĩ không nên chờ đợi cho đến khi có triệu chứng này để nghi ngờ là có lồng ruột. Đôi khi khám có thể sờ thấy một khối ở bụng, có hình giống một chiếc xúc xích. Thủng ruột biểu hiện bằng các dấu hiệu của viêm phúc mạc với nhạy cảm đau đáng kể, phản ứng thành bụng và co cứng cơ thành bụng. Xanh tái, nhịp tim nhanh và vã mồ hôi cho thấy 5 đến 10% số trẻ không có pha đau bụng thành cơn. Thay vào đó, trẻ có biểu hiện li bì, như thể dùng thuốc phiện biểu hiện khác thường hoặc thờ ơ. Trong những trường hợp này, chẩn đoán lồng ruột thường dễ bị bỏ qua cho đến khi có phân nhầy máu hoặc sờ thấy khối ở bụng. Siêu âmThụt barit là một nghiên cứu ban đầu được ưa sử dụng vì nó cho thấy hình ảnh chuỗi xoắn dạng lò xo kinh điển xung quanh đoạn lồng ruột. Bên cạnh chẩn đoán, thụt barit cũng thường là để điều trị; áp lực của barit thường sẽ tháo các đoạn ruột lồng. Tuy nhiên, đôi khi barit đi vào khoang phúc mạc qua một lỗ thủng không phát hiện được trên lâm sàng và gây nên viêm phúc mạc đáng kể. Hiện nay, siêu âm là phương tiện chẩn đoán được ưu tiên; vì nó thực hiện dễ dàng, tương đối rẻ tiền và an toàn; dấu hiệu đặc trưng được gọi là dấu hiệu bia khi, lồng ruột được nhìn thấy tình cờ trên một nghiên cứu hình ảnh, chẳng hạn như chụp CT. Nếu trẻ không có triệu chứng lồng ruột thì có thể theo dõi và không cần can thiệp. Bơm hơiPhẫu thuật nếu bơm hơi thất bại hoặc có thủng ruộtNếu xác định là lồng ruột thì bơm hơi được dùng để tháo lồng, việc này sẽ làm giảm bớt khả năng gây thủng ruột và hậu quả của thủng ruột. Phương pháp tháo lồng này có thể thành công từ 75-95% số trẻ. Nếu bơm hơi thành công, trẻ cần được theo dõi thêm qua đêm để loại trừ bị thủng ruột. Nếu tháo lồng thất bại hoặc nếu thủng ruột thì cần phải phẫu thuật ngay lập tức. Nếu tháo lồng thành công mà không cần phẫu thuật, tỷ lệ tái phát là từ 5 đến 10%. Lồng ruột là lồng một đoạn ruột vào một đoạn ruột khác, thường ở trẻ < 3 thường có đau bụng từng cơn và nôn, sau đó là đi ngoài phân nhày đoán bằng siêu trị tháo lồng bằng bơm hơi và đôi khi bằng phẫu thuật. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

viêm dạ dày ruột ở trẻ nhỏ